Đô thị hóa vùng ven ở Hà Nội

 

GS. ĐÀO THẾ TUẤN

Chủ tịch hội phát triển nông thôn Việt Nam

 

Một trong những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng lương thực hiện nay là sự mất cân đối ngày càng tăng giữa thành thị và nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa ở các nước đang phát triển. Sự mất cân đối này thể hiện rõ nhất trong thu nhập của người dân ở thành thị và ở nông thôn. Người nông dân không muốn làm việc trong ngành nông nghiệp và không muốn ở nông thôn nữa. Họ thích đổ về thành phố hơn. Mất cân đối giữa đô thị và nông thôn còn thể hiện ở sự phân cách trong phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Người ta thiếu một chiến lược để chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn gắn với quá trình đô thị hóa. Quy hoạch đô thị do các chuyên gia quy hoạch ở Bộ xây dựng thực hiện trong khi đó sự phát triển của nông thôn và không gian nông thôn lại do những chuyên gia về nông thôn ở Bộ nông nghiệp phụ trách. Không có sự kết hợp và điều phối của những quy hoạch này.

 

Bài viết này nhằm phân tích các mô hình đô thị hóa có thể làm giảm sự mất cân đối giữa đô thị và nông thôn. Phần đầu, chúng tôi sẽ đề cập đến mô hình đô thị hóa truyền thống đã diễn ra ở Hà Nội, Thành phố sẽ tiến hành đại lễ 1000 năm trong hai năm nữa. Phần cuối, chúng tôi sẽ trình bày về mô hình Desakota, mô hình đô thị hóa vùng ven đang diễn ra ở Trung Quốc.

 

Đô thị hóa ở Thăng Long – Kẻ Chợ

 

Thành phố Hà Nội hình thành vào năm 1010 khi vua Lý Thái Tổ dời đô về Đại La. Vua Lý Thái Tổ đặt tên kinh đô lúc bấy giờ là Thăng Long « Rồng bay lên ». Phần lớn thủ đô của các nước Đông Á đều được xây dựng theo mô hình kinh thành của Trung Quốc, gồm tử cấm thành, hoàng thành và ngoại thành. Tuy nhiên, thành Thăng Long không theo mô hình này.

 

Thăng Long bắt đầu phát triển kể từ thế kỷ 14 với tên gọi dân gian là Kẻ Chợ. Thăng Long trở thành một thị trường lớn tiêu thụ các mặt hàng thủ công của đồng bằng sông Hồng. Kẻ Chợ có 5 đến 6 bến tàu và mạng lưới gồm 8 chợ vào thế kỷ thứ XVI và 4 chợ mới vào thế kỷ thứ XIX ở tất cả các cửa ngõ ra vào thành. Thăng Long được chia thành nhiều Phường, mỗi Phường phát triển một nghề thủ công. Vào thế kỷ thứ XIII, thành phố có 61 phường, nhưng đến thế kỷ thứ XVI chỉ còn lại 36 Phường. Các phường sau đó được chuyển thành Phố và ngày nay, mỗi phố mang tên một nghề thủ công.

Mỗi phố của Thăng Long đều có các mối quan hệ với một vài làng nghề ở đồng bằng sông Hồng, hỗ trợ sự phát triển của các làng nghề này vốn rất cần thiết trong việc tạo việc làm và cải thiện thu nhập của người nông dân. Một nghiên cứu về mối quan hệ giữa Thăng Long với các làng nghề thủ công từ thế kỷ thứ 15 đến thế kỷ thứ 19 đã chứng minh được rằng các làng nghề là nơi cung cấp nguyên liệu và nhân lực cho các phố ngành nghề và các phố này là thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề. Người dân ở các phố của Hà Nội là những thợ thủ công đến từ các làng nghề mà hiện nay họ vẫn còn giữa các mối quan hệ với làng quê của mình. Sản phẩm của một số làng nghề được hoàn thiện tại Hà Nội trước khi đưa ra thị trường. Mô hình đô thị hóa này đã làm cho Hà Nội trở thành trung tâm kinh tế của đồng bằng sông Hồng và đã hỗ trợ sự phát triển bền vững của khu vực này. Tiếc là, ngày nay Hà Nội đã quên đi mô hình đô thị hóa truyền thống của mình. Hiện nay, Hà Nội và các thành phố khác của Việt Nam đang áp dụng mô hình công nghiệp hóa và đô thị hóa dựa trên thu hút đầu tư nước ngoài, mở ngõ thị trường nội địa cho các công ty nước ngoài.

Trong thế kỷ thứ 20, và nhất là trong thời kỳ Đổi Mới, Hà Nội có ảnh hưởng lớn đến quá trình đô thị hóa vùng ven, sau một thời gian quá trình này bị chững lại. Nghiên cứu của chúng tôi về sự phát triển của các vùng ven Hà Nội trong khuôn khổ dự án RURBASIE do Liên minh Châu Âu tài trợ đã cho thấy trong 2 thập kỷ gần đây, xung quanh Hà Nội đã hình thành 3 vành đai :

– Vành đai 1 : gồm các làng gần sát Hà Nội và đang chờ đô thị hóa. Trong vành đai này, người nông dân làm nông nghiệp để giữ quyền sử dụng đất của mình. Đầu cơ đất là hoạt động kinh tế chính tại đây.

– Vành đai 2 : gồm các làng ở xa thành phố hơn, chưa có điều kiện đô thị hóa, đang phát triển nhanh, có hoạt động phi nông nghiệp ở các làng nghề truyền thống hoặc mới thành lập. Nhiều làng nghề kết hợp với các làng lân cận lập thành các cụm ngành nghề nhằm tạo việc làm, cải thiện thu nhập của người dân và giữ người nông dân ở lại với nông thôn. Những cụm ngành nghề này đang bị đô thị hóa tự phát mà không có quy hoạch cũng như hỗ trợ của nhà nước, tạo nên quá trình đô thị hóa phi tập trung ở vùng ven Hà Nội với vành đai cụm công nghiệp và nông nghiệp rất năng động tạo thành một hệ thống mới như ở các nước Đông Á. Quá trình này đã dẫn đến nhưng thay đổi về cơ cấu trong vùng dựa trên nội lực.

 

– Vành đai 3 : gồm các làng ở xa thủ đô, không có mối quan hệ kinh tế trực tiếp với thủ đô. Hoạt động chính ở đây là nông nghiệp và thu nhập của người dân rất thấp. Đàn ông và phụ nữ trẻ rời bỏ làng để lên thành phố tìm việc, giao việc làm nông lại cho phụ nữ đứng tuổi và người già. Nền nông nghiệp ở đây mang tính quãng canh và không có chăn nuôi. Điều này dẫn đến có nguy cơ mất an ninh lương thực.

Ví dụ ở Hà Nội cho thấy, thành phố này đã áp dụng cách tiếp cận « thành phố – vùng » theo như khuyến nghị của A.Scott (1998). Theo A. Scott, các thành phố được nối kết với nhau bằng các khu vực nông thôn có nhiều thị trấn nhỏ trong đó các hoạt động kinh tế và chính trị đang xen rất khó hiểu. Do đó, cần phải tìm một chiến lược đô thị hóa mới có những đặc điểm sau :

  1. Thống nhất sự phát triển đô thị và nông thôn trong một chính sách chung của quốc gia.
  2. Phi tập trung đô thị hóa
  3. Xây dựng mối quan hệ đô thị – nông thôn trong chiến lược phát triển đô thị
  4. Cần phải suy nghĩ theo mối quan hệ giữa các mạng lưới, các hệ thống chứ không nên suy nghĩ theo địa giới hành chính.

Chúng tôi nghĩ rằng cách tiếp cận này sẽ giúp cho chúng ta giải quyết được vấn đề lồng ghép đô thị và nông thôn trong chính sách chung. Sự phát triển của đô thị cần phải kéo theo sự phát triển của vùng nông thôn xung quanh nó, nơi có rất nhiều tiềm năng.

 

Mô hình đô thị hóa ở đồng bằng sông Châu Giang, tỉnh Quảng Đông

 

Mô hình đô thị hóa phi tập trung, đô thị hóa vùng ven được gọi là Desakota ở Miền Nam Trung Quốc có thể giúp cho chúng ta đưa ra được mô hình đô thị hóa cho các đồng bằng có mật độ dân số cao. Ở Trung Quốc, quá trình này đã diễn ra ở hai vùng năng động nhất của cả nước : đồng bằng sông Dương Tử gần Thượng Hải và đồng bằng sông Châu Giang.

Trong tham luận này, chúng tôi muốn phân tích mô hình đô thị hóa ở đồng bằng sông Châu Giang vì chúng tôi nghĩ rằng nó gần với hiện tượng xảy ra ở Hà Nội hơn, một hiện tượng đô thị hóa đang diễn ra mà không tính đến truyền thống phát triển của mình.

 

Đồng bằng sông Châu Giang là đồng bằng có mật độ cao nhất ở Trung Quốc. Đây cũng là vùng năng động nhất của cả nước. Nó được hình thành từ phù sa của 3 dòng sông : Tây Giang, Bắc Giang và Đông Giang, trong đó Tây Giang là sông lớn nhất, chiếm 80% lưu lượng và 90% lượng phù sa. Đồng bằng có 8 cửa sông. Diện tích của đồng bằng này là 8 601 km2.

Đồng bằng không có giới hạn, nó không chỉ bao gồm phần diện tích đồng bằng mà còn gồm 300 ngọn đồi do phù sa bồi đắp có độ cao từ 10 đến 300m. Đồng bằng gồm 7 thành phố, 7 quận với tổng diện tích là 14.100 km2 (chiếm 7,92% diện tích toàn tỉnh). Năm 1987, đồng bằng này được xác định bao gồm 18 thành phố với diện tích là 45.594 km2. Nếu tính luôn các thành phố Quảng Châu, Thẩm Quyến và Chu Hải, thì diện tích này lên đến 48 005 km2, tức ¼ tỉnh Quảng Đông.

Dân số của tỉnh Quảng Đông năm 2005 là 83,04 triệu người cộng với hơn 30 triệu người nhập cư. Mật độ dân số là 467 người/km2.

Việc phát triển đồng bằng này bắt đầu vào năm 1978 với việc xây dựng thành phố Thẩm Quyến, nơi thu hút lao động đến từ khắp mọi miền đất nước. Từ năm 1986 đến năm 1993, Hồng Kông chiếm 84% tổng số vốn đầu tư nước ngoài ở Quảng Đông. Các thành phố khác cũng thu hút đầu tư nước ngoài và Quảng Đông đã trở thành tỉnh có tốc độ tăng trưởng cao nhất của đất nước (13,4% / năm). GDP bình quân đầu người của Quảng Đông cao gấp 3 lần trung bình của cả nước và gấp 2 lần so với các tỉnh khác. Khu vực đồng bằng chiếm 92% tổng kinh ngạch xuất khẩu và chiếm 84% số vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh. Trong năm 2000, khu vực này chiếm 34% tổng kim ngạch xuất khẩu và 30% tổng số vốn đầu tư nước ngoài trên cả nước.

Đồng bằng sông Châu Giang có 8 thành phố lớn, 2 vùng kinh tế đặc biệt, Chu Hải và Thẩm Quyến, gần Hồng Kông và Macao. Vùng đô thị tại đây khá giống với Hà Lan hay miền Bắc nước Ý, đó là mô hình thành phố-nông thôn, dạng Desakota (McGee, 1991).

Tỉnh Quảng Đông có 21 thành phố cấp vùng, 26 thành phố cấp quận, 42 quận, 3 huyện tự trị và 52 thị trấn. Hiện nay, khó có thể xác định được ranh giới giữa đô thị và nông thôn. Đó là lý do tại sao trong số liệu thống kê chỉ ghi là người làm nghề nông nghiệp và người làm nghề phi nông nghiệp.

Những người ngoại tỉnh chuyển đến đồng bằng này không tập trung ở các thành phố vì đô thị hóa ở khu vực này mang tính phi tập trung. Ở khu vực nông thôn, có hiện tượng đô thị hóa ở các thị trấn. Số lượng các thị trấn đã tăng từ 41 vào năm 1890 lên 644 vào năm 1922 và 1.458 vào năm 2002. Các thị trấn có từ 2000 đến hơn 20 000 dân. Trong các thị trấn này, ngành công nghiệp phát triển khá nhanh.

Từ năm 1980 đến năm 2002, GDP của tỉnh Quảng Đông tăng 13,4% / năm, trong đó nông nghiệp tăng 5,6%, công nghiệp tăng 16,8% và dịch vụ tăng 13,8%.

Các thành phố có sự chuyên môn hóa về một số sản phẩm : trung tâm của đồng bằng và Thành phố Quảng Châu chuyên về hàng gia dụng (máy may, tủ lạnh), Thành phố Trung Sơn chuyên về máy giặt, Thành phố Phật Sơn chuyên về quạt máy và tủ lạnh ; Khu vực miền trung của đồng bằng chuyên về camera và máy vi tính, Thành phố Thẩm Quyến chuyên về máy vi tính và tivi, Thành phố Quảng Châu chuyên về xe gắn máy và xe đạp, Thành phố Giang Môn chuyên về máy cày đẩy tay ; Khu đồng bằng chuyên về quần áo may sẵn và các ngành công nghiệp thực phẩm ; Khu vùng ven chuyên về xi măng, gỗ, công nghiệp hóa chất, dệt.

Ở khu vực trung tâm của đồng bằng, người nông dân phát triển các ngành công nghiệp ở nông thôn. Các huyện ven biển thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Tỉ trọng ngành nông nghiệp trong GDP, diện tích đất nông nghiệp và nhân lực thấp, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn cao (5,6% /năm). Chăn nuôi, trồng cây ăn trái và nghề nuôi cá đang phát triển nhanh. Về dịch vụ : giao thông vận tải, du lịch và thương mại phát triển khá nhanh.

 

Các mô hình đô thị hóa và đô thị hóa vùng ven ở châu Á

 

 Quá trình đô thị hóa ở châu Á có hai xu hướng chính :

  1. Tập trung người và sản xuất ở một số nơi, từ đó hình thành các đại đô thị.
  2. Trong các vùng đại đô thị, những người thuộc tầng lớp giàu có di chuyển đến vùng nông thôn xung quanh để tránh những hậu quả xã hội và môi trường của sự phát triển đô thị.

Đặc trưng của đô thị hóa ở các vùng đô thị của khu vực Nam Á là việc mở rộng đô thị không có kiểm soát và việc sử dụng đất một cách hỗn loạn. Hệ quả là việc sử dụng hỗn hợp giữa đất nông nghiệp và phi nông nghiệp trở thành một đặc trưng trong cảnh quan của các khu vực này. Khái niệm nông thôn và thành thị không còn nữa vì sự khác biệt giữa lối sống đô thị và nông thôn không còn rõ nét.

 


Mô hình vùng đô thị mở rộng (RME)

Mô hình này được áp dụng ở Hồng Kông và Singapore trong việc đô thị hóa vùng nông thôn xung quanh đô thị. Các nhân tố dưới đây đã góp phần định hướng cho quá trình này :

– Quá trình phi tập trung dân số và việc làm cùng với sự phát triển của tiểu trung tâm ở các khu vực đô thị hóa,

–        Phi tập trung việc làm trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ,

–        Sự phát triển của các tuyến đường giao thông và của việc đi lại bằng xe hơi,

–        Sự phát triển của thị trường đất và mối quan hệ giữa tiền cho thuê đất với mật độ dân số,

–        Nhu cầu về nhà ở của người dân tăng

–        Phát triển các khu vực vui chơi giải trí ở vùng ven để phục vụ những người có thu nhập cao ở khu trung tâm,

–        Công nghệ thông tin, truyền thông và giao thông góp phần rút ngắn thời gian và không gian của các hoạt động kinh tế.

 
Mô hình “thành phố-vùng”

Đây là mô hình do A. Scott (1998) đề xuất. Theo tác giả này, các thành phố liên kết với nhau bởi các vùng nông thôn với các thị trấn nhỏ, nơi các hoạt động kinh tế và chính trị đan xen một cách khó hiểu. Đó là lý do tại sao chúng ta cần có một chiến lược mới về đô thị hóa với các đặc điểm sau:

  1. Thống nhất sự phát triển của đô thị và nông thôn trong một chính sách chung mang tầm quốc gia.
  2. Phi tập trung đô thị hóa.
  3. Xây dựng mối quan hệ đô thị và nông thôn trong chiến lược phát triển đô thị.
  4. Cần suy nghĩ theo các mối quan hệ của các hệ thống và mạng lưới thay vì theo địa giới hành chính.

Chúng tôi tin rằng phương pháp tiếp cận này có thể giúp chúng ta giải quyết vấn đề lồng ghép giữa quy hoạch đô thị và nông thôn với nhau. Sự phát triển của đô thị kéo theo sự phát triển của nông thôn xung quanh nó, nơi có tiềm năng nội sinh lớn.

 

Mô hình tương tác vùng ven đô (IPU)

 Bộ Phát triển Quốc tế Anh (DFID) hỗ trợ chương trình xây dựng hệ thống sản xuất với quy hoạch và quản lý tương tác ở vùng ven đô để giảm đói nghèo và các vấn đề môi trường. Trong quá trình thực hiện chương trình này, chúng tôi thấy rằng các cơ sở lý thuyết của tương tác vùng ven đô chưa được nghiên cứu kỹ.

Trong lý thuyết giao diện vùng ven đô, vai trò của vùng đệm rất quan trọng. Vùng đệm ven đô là một không gian chuyển tiếp giữa đô thị và nông thôn. Đó cũng là nơi ở của những người nông dân từ quê lên thành phố tìm việc làm.

 – Vai trò của nông nghiệp ở vùng ven là rất quan trọng.

–   Các hoạt động kinh tế phi chính quy cũng quan trọng : sản xuất nhỏ, thương mại, đa dạng hoá thu nhập, các nhóm giúp đỡ lẫn nhau, tín dụng phi chính quy, các hoạt động không có giấy phép.

–   Tranh chấp về quyền sử dụng đất và đầu cơ đất,

–   Gia tăng dân số hỗ trợ sự phát triển của vùng đệm.

 Các thành phố trung bình và sự lan tỏa đô thị

  Vai trò của các thành phố trung bình trong việc giảm chênh lệch giữa thành thị và nông thôn. Nhưng, thiếu sự hỗ trợ về chính sách cho các thành phố này trong quá trình đô thị hóa.

Phát triển từ dưới lên

 Thông thường đô thị hóa được thực hiện theo cách tiếp cận từ trên xuống. Tuy nhiên, trong thực tế có một xu hướng tiếp cận từ dưới lên mà không được thừa nhận trong các chính sách về đô thị hóa.

 Mô hình Desakota

 Ở Châu Á, sự phát triển đô thị đi theo hướng phát triển thành các siêu đô thị và tập trung vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Mô hình này làm tăng sự mất cân đối giữa đô thị và nông thôn, gây khó khăn cho sự phát triển của ngành nông nghiệp và nông thôn. Có một mô hình khác kết hợp giữa sự phát triển thành phố trung bình và phát triển nông thôn. Mô hình này có tên gọi là đô thị hóa phi tập trung hay Desakota (theo tiếng Indonesia: Desa = thành phố, kota = nông thôn). Mô hình này đã được áp dụng tại Trung Quốc (tỉnh Quảng Đông và Giang Tô).

McGee (1991) nhận định đô thị hóa ở Châu Á rất độc đáo và được đúc kết lại bằng từ Desakota ở vùng ven. Desakota là một không gian phức hợp trong một khu vực với các thành phố ở trung tâm, các vùng đệm, các thành phố vệ tinh. Dân số phân bố rộng khắp trên địa bàn, nhưng các hoạt động nông nghiệp lại rất tập trung và có tính thâm canh cao. Đặc trưng của hệ thống Desakota là các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp đan xen với nhau và có sự lồng ghép giữa làng quê và thị trấn nhỏ. Tại Trung Quốc, ban đầu mô hình này do các nhà đầu tư nước ngoài xây dựng và phát triển một cách tự phát. Khi các nhà đầu tư Hồng Kông phát triển các ngành công nghiệp cần nhiều nhân lực, họ không chọn đầu tư vào các khu công nghiệp cũ, mà thay vào đó là đầu tư vào các làng và các thị trấn nhỏ nơi các ngành công nghiệp đang được phát triển. Mô hình này đã được phát triển theo cách đó và đã có thể giải quyết được những mâu thuẫn giữa đô thị hóa và phát triển nông thôn.

Mô hình đô thị hóa phi tập trung và công nghiệp hóa nông thôn có thể giảm bớt sự mất cân đối giữa thành phố và nông thôn, vốn là kết quả của cải cách kinh tế ở các quốc gia trong thời kỳ quá độ. Mô hình này giúp giải quyết những khó khăn trong phát triển nông thôn do các xu hướng tự do kinh tế mới của tiến trình cải cách gây ra. Cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay đã châm ngòi cho luồng di dân với quy mô lớn từ nông thôn lên thành thị và dẫn đến mất an ninh lương thực và giảm xuất khẩu hàng nông sản của cả nước.

Mô hình Desakota là một quá rrình bao gồm cả hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp, liên kết cả làng xã và các thị trấn. Quá trình này bao gồm cả đô thị hoá lẫn phát triển nông thôn. Có một điều đáng chú ý là quá trình này không phải d nhà nước Trung quốc chủ trương thực hiện mà lại do các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu.

 Mô hình đô thị hóa và công nghiệp hóa phi tập trung của châu thổ không phải đã được xây dựng một cách chủ động từ đầu mà bắt đầu một cách tự phát. Lúc Hong kong có ý định chuyển giao các ngành công nghiệp cấp thấp tốn nhiều lao động sang cho Quảng đông thì họ không xây dựng xí nghiệp ở các khu công nghiệp cũ quanh Quảng châu, mà họ chọn các nơi mới trên châu thổ gần nhất, trong đó có Thâm quyến. Do việc đầu tư nước ngoài ở Quảng đông chủ yếu là của hoa kiều nên họ đầu tư về quê hương của họ ở các vùng nông thộn, đi đôi với chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp hương trấn nên nông thôn được công nghiệp hóa rất nhanh. Lúc lao động các tỉnh di cư về Quảng đông để tìm kiếm việc làm nhà nước cấm không cho vào Quảng châu nên họ phải ở vùng ngoại ô đang phát triển nhanh.

Mô hình đô thị hóa và công nghiệp hóa phi tập trung của châu thổ không phải đã được xây dựng một cách chủ động từ đầu mà bắt đầu một cách tự phát. Lúc Hong kong có ý định chuyển giao các ngành công nghiệp cấp thấp tốn nhiều lao động sang cho Quảng Đông thì họ không xây dựng xí nghiệp ở các khu công nghiệp cũ quanh Quảng Châu, mà họ chọn các nơi mới trên châu thổ gần nhất, trong đó có Thâm Quyến. Do việc đầu tư nước ngoài ở Quảng đông chủ yếu là của hoa kiều nên họ đầu tư về quê hương của họ ở các vùng nông thộn, đi đôi với chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp hương trấn nên nông thôn được công nghiệp hóa rất nhanh. Lúc lao động các tỉnh di cư về Quảng đông để tìm kiếm việc làm nhà nước cấm không cho vào Quảng châu nên họ phải ở vùng ngoại ô đang phát triển nhanh.