
Thẻ
Những nỗ lực quy hoạch vĩ đại: Quy hoạch cải tạo Paris của Haussmann
Kiến tạo Kinh đô Ánh sáng:
Quy hoạch cải tạo Paris của Haussmann
Quy hoạch sư Nguyễn Đỗ Dũng
Tác giả trân trọng cảm ơn giáo sư Douglas Allen, Viện Công nghệ Georgia, đã gợi ý và truyền cảm hứng về bài viết này
Cảm ơn Hà Giang và Phương Anh đã góp ý và giúp biên tập bài viết
(Bài đã đăng trên tạp chí Quy hoạch Đô thị số Tết 2012)
Thành Paris hoa lệ mà chúng ta biết ngày hôm nay về cơ bản là kết quả của một đồ án quy hoạch hay đúng hơn là một dự án cải tạo đô thị với quy mô và chiều sâu chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Đó là Quy hoạch cải tạo (QHCT) Paris do luật sư Georges Eugene Haussmann đứng đầu vào nửa cuối thế kỷ 19. Khác với những nỗ lực quy hoạch trước và sau Haussmann, QHCT Paris của ông không trình bày viễn cảnh cho tương lai thành phố. Bản thân Haussmann, trong thực hành cũng như học thuật, chưa bao giờ tỏ ra quan tâm về một hình ảnh đô thị tương lai phải như thế nào. Thay vào đó, quy hoạch được trình bày thông qua những dự án cụ thể. Xin giới thiệu với độc giả những ý tưởng, bản vẽ và hành động đã không chỉ biến đổi Paris thành Kinh đô Ánh sáng của nhân loại mà còn khởi đầu cho nền quy hoạch hiện đại.

Hình 1.: Bản đồ Paris năm 1800 thể hiện tình trạng của thành phố trước QHCT Paris của Haussmann. Chú thích: 1-Vườn Tuileries, 2-Cung điện Louvre, 3-Champs Elysées, 4-Nhà thờ Đức Bà, 5-Sông Seine và 6-Boulevard. Nguồn: http://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Old_maps_of_Paris
Sau “đêm trường Trung cổ”, thành Paris tiếp nhận Trào lưu đô thị Phục hưng từ nước Ý vào cuối thế kỷ 16 (1) với những công trình đơn lẻ và ít tác động vào cấu trúc đô thị hiện hữu. Gần một thế kỷ sau, kiến trúc sư cảnh quan Le Nôtre, tác giả của vườn Versailles, đã đề xuất kéo dài trục của vườn Tuileries về phía Tây để tạo nên Đại lộ Champs Elysées. Đại lộ này sau đó trở thành trục phát triển chính của thành phố: kết nối đô thị với vùng nông thôn phía Tây và tạo ra một khung phát triển vùng độc đáo trong lịch sử (2). Cùng với Champs Elysées, một cung đường rộng khác cũng được mở chạy dọc theo tường thành cũ phía Bắc Paris – nay không còn ý nghĩa phòng thủ (Hình 1). Cung đường này do đó được gọi là Boulevard, một từ gốc Bắc Âu có nghĩa là “hàng rào quân sự” (2).
Vườn Tuileries tráng lệ và Champs Elysées trơ chọi giữa cảnh quan nông thôn tuy giúp định hình Paris tương lai nhưng lại không giúp giải quyết những vấn đề của Paris hiện tại. Thành phố vẫn là một đô thị trung cổ chật chội với nhà cửa lộn xộn và đường phố hẹp (Hình 1). Bên cạnh đó, phần lớn thành phố nằm trên một vùng đất thấp bên hữu ngạn sông Seine nên thường xuyên chịu cảnh ngập lụt (Hình 2). Hệ thống thoát nước yếu kém và việc tới 40% căn nhà trong thành phố không kết nối với hệ thống này khiến cho mỗi khi ngập lụt, phế thải chảy tràn trên đường phố Paris gây ô nhiễm môi trường và bệnh tật nghiêm trọng (3). Điển hình là dịch tả giết chết 19.000 người vào năm 1848 (9). Cùng lúc đó, cách mạng công nghiệp thu hút hàng trăm ngàn nông dân di cư ra thành phố trong khi hệ thống hạ tầng đô thị yếu kém và ngành vệ sinh dịch tễ chưa ra đời. Đô thị thực sự trở thành địa ngục trần gian với môi trường sống tồi tệ và bất công đầy rẫy.
Năm 1853, chỉ một năm sau khi trở thành vua nước Pháp, Napoleon III triệu hồi Haussmann, lúc đó 44 tuổi, về Paris để giao cho chức vụ Préfet de Seine, tương đương vị trí “giám đốc quản lý thành phố”[i], đảm nhiệm việc cải tạo lại toàn bộ thủ đô (3).
Haussmann mang đến Paris khả năng quản trị, tính cương quyết và một sự tận tụy đối với đất nước (4). Đội ngũ chính của ông bao gồm: kỹ sư Eugène Belgrand phụ trách mảng cấp và thoát nước; kỹ sư Adolphe Alphand phụ trách thiết kế cảnh quan; và nhà làm vườn Jean-Pierre Barillet-Deschamps phụ trách về cây xanh. Tất cả đều là những nhà chuyên môn hàng đầu của thời đại và thông qua QHCT Paris họ lưu danh kim cổ.
Một trong những công việc đầu tiên mà Haussmann thực hiện là vẽ bản đồ chi tiết thành phố Paris. Ông cho dựng những cây cột gỗ có kích thước cao hơn các công trình xung quanh khắp nơi trong thành phố để tạo thành các điểm khảo sát. Chi tiết thu được được mô tả trên một bản đồ tỷ lệ 1:5000 có kích thước 3,7 x 4,5 mét (6). Công việc bản đồ hóa hệ thống cống của Paris đã được một sĩ quan trong quân đội bắt đầu dưới thời Napoleon I năm 1806 (8).
Vấn đề thứ hai cần giải quyết là xây dựng cơ chế tài chính để triển khai dự án. Nhà vua đã nhấn mạnh rằng ông muốn cải tạo lại Paris mà không phải tăng thuế lên người dân (6). Điều này có nghĩa là Haussmann phải tìm phần lớn nguồn vốn ngoài ngân sách hiện hữu của chính quyền. Giải pháp tài chính đầu tiên là bán trái phiếu của thành phố cho công chúng và các quỹ đầu tư (3). Giải pháp thứ hai của Haussmann là buộc các nhà thầu xây dựng chịu trách nhiệm chi trả cả tiền đền bù cho những công trình bị giải tỏa, tức là chịu gánh nặng tài chính cho toàn bộ dự án. Tuy nhiên, bản thân các nhà thầu không có số tiền lớn như vậy trong khi ngân hàng cũng không sẵn sàng cho vay chỉ dựa trên bản hợp đồng với thành phố. Haussmann giải quyết khúc mắc này bằng một cơ chế tài chính mới: thanh toán trước cho các nhà thầu bằng một loại trái phiếu mà sẽ được chi trả bởi việc tăng nguồn thu thuế do gia tăng giá trị bất động sản sau khi dự án hoàn thành (3). Với trái phiếu này, các nhà thầu có thể dễ dàng đi vay ngân hàng và khởi động công việc xây cất.
Ý tưởng vay tiền trong hiện tại để cấp vốn cho dự án công dựa vào tín chấp là giá trị thuế gia tăng trong tương lai là một phát minh mới vào thời điểm bấy giờ mà Haussmann góp phần đưa vào thực tế cuộc sống. Còn giải pháp “ép” nhà thầu xây dựng đứng ra vay tiền ngân hàng thay chính quyền của ông là nhằm “lách luật”, tránh cơ chế giám sát tài chính của quốc hội. Giải pháp này cuối cùng không thành công như ông dự kiến: giá trị bất động sản tăng xấp xỉ 12 lần khi dự án hoàn thành (9) nhưng thuế thu được chỉ đủ chi trả 1/3 số tiền đã vay. Haussmann chi tiêu tất cả 2,5 tỷ francs trong thời gian 17 năm nắm quyền điều hành dự án và để lại một khoản nợ khổng lồ cho chế độ khiến ông mất việc năm 1870 (3). Tuy nhiên, bất chấp sai lầm này, Haussmann vẫn được coi là một nhà quản lý tài năng, liêm khiết và đầy tâm huyết đã biến Paris thành mô hình mẫu mực trong quy hoạch đô thị cuối thế kỷ 19 (6,3).
Ngày nay chúng ta có đầy đủ thông tin về QHCT Paris phần lớn nhờ vào hai tác phẩm của những người trực tiếp thực hiện dự án. Mémoires (13) (Hồi ức) là cuốn sổ tay Georges-Eugène Haussmann sau này được xuất bản rộng rãi. Cuốn sách không có một tấm hình nhưng đầy những con số: Đường dải sỏi ở công viên Bois de Boulogne dài 612.511 mét, đường cát 189.400, đường đất 275.500; tổng cộng là 1.074.411 mét. Ngược lại, cuốn catalogue của người cộng sự, Adolphe Alphand: Les Promenades de Paris(11) (Những con đường dạo ở Paris) tập hợp tới 500 bản vẽ khắc gỗ vô cùng tinh tế – một số bản vẽ trong cuốn sách được giới thiệu trong bài viết này.
.”]
Đường phốVệc xây dựng hệ thống cống thoát nước, vỉa hè, đèn chiếu sáng và dải cây xanh dọc theo các tuyến đường đã định nghĩa lại làn ranh giữa không gian công cộng (đường phố) và không gian tư (công trình) (8). Hệ thống hạ tầng này mở rộng định nghĩa về chức năng của đường phố, từ không gian vận chuyển con người và hàng hóa tới vai trò về môi trường và sức khỏe cộng đồng (8).Những con đường mà QHCT Paris đề xuất bao gồm hai loại: avenue và boulevard. Boulevard thường là những đường vành đai rộng, cây trồng hai bên đường và có chức môi trường: mang ánh sáng, không khí và cây xanh tới cuộc sống đô thị (8). Trong khi đó, avenue là những đại lộ thẳng tắp có chức năng thiết kế đô thị là kết nối các công trình mang tính biểu tượng quan trọng. Cả avenue và boulevard tạo thành hệ thống khung cho “không gian kiến trúc và hướng sự chú ý tới nơi chốn” (3). Hệ thống giao thông của Paris được hoàn thiện bằng việc xây dựng các trục Đông-Tây và Bắc-Nam xuyên thành phố và hoàn thành đại lộ vành đai (Boulevard St. Germain). Những thành quả khác của dự án bao gồm: sử dụng nhựa đường thay thế cho đá lát đường; tăng tổng chiều vỉa hè từ 250 km năm 1842 lên đến 1000 km vào năm 1870; và xây dựng 7 cây cầu bắc qua sông Seine (9).Tuy nhiên, giao thông trong đồ án cải tạo Paris của Haussmann không chỉ bó hẹp trong việc xây dựng hệ thống đường cho phương tiện cơ giới. Giao thông công cộng cũng được đầu tư thích đáng. Năm 1954, công ty xe buýt sử dụng ngựa kéo ra đời từ sự hợp nhất nhiều doanh nghiệp nhỏ với 30 tuyến và gần 500 phương tiện. Một tuyến đường sắt hạng nhẹ[i]chạy bằng hơi nước kết nối công viên Bois de Boulogne với Quảng trường Concorde khai trương năm 1854 (9). Một tuyến đường sắt chạy vòng quanh thành phố được đưa vào hoạt động từ 1862 tới 1867 với chiều dài 30km, 27 nhà ga và 3 chuyến mỗi giờ (9).

Hình 14: Đại lộ L'Avenue de l'Opéra trước nhìn từ Nhà hát Opera Paris (hình trái) và nhìn về nhà hát (hình phải). Kiến trúc công trình hai bên đại lộ là kết quả của quy định quản lý kiến trúc trong QHCT Paris. Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/File:Avenue_de_l'Opéra.jpg.
và [15].”]Kiến trúcMặc dù kiến trúc không phải là ưu tiên hàng đầu của dự án (3), nhiều công trình công cộng quan trọng đã được xây dựng trong thời kỳ này như: Nhà hát Opéra Paris, bệnh viện Hôtel Dieu, một nhánh mới của cung điện Lourve và hai nhà ga đường sắt, v.v… Tuy nhiên, ảnh hưởng quan trọng nhất của QHCT Paris với kiến trúc thành phố là một bộ quản lý kiến trúc chi tiết và chặt chẽ (12).Trước hết, nhằm đạt ý đồ thiết kế đô thị tổng thể của đồ án, các công trình được quy định xây sát vỉa hè nhằm định hình không gian công cộng và tạo thành tuyến nhìn dọc theo các đại lộ tới các công trình điểm nhấn (Hình 14). Không gian đường phố còn được tôn lên thông qua quy ước giới hạn chiều cao tối đa là 6 tầng, chiều cao các tầng phải đồng nhất và tầng mái vát một góc 45o.Dựa trên mô hình nhà chung cư có tên gọi insulatừ thời La Mã cổ đại, các quy định về kiến trúc được đặt ra nhằm đảm bảo độ an toàn và chất lượng sống trong mỗi công trình. Các khối nhà đều có sân trong để lấy ánh sáng và thông gió tự nhiên cũng như bố trí cầu thang. QHCT Paris cũng quy định về mức độ chịu lửa của các bức tường, kiểu cách của mặt tiền và tỷ lệ diện tích mặt kính được sử dụng trong các công trình mới. Những chi tiết kiến trúc có thể khác biệt giữa các công trình không nhiều như chi tiết khung cửa sổ, chi tiết trang trí trên các con-sơn.

Hình 16: Phố Réaumur trước và sau đồ án cải tạo Paris của Haussmann. Nguồn: http://www.skyscrapercity.com
Ảnh hưởng & Phê phán
Haussmann và cộng sự là tác giả của Paris mà chúng ta biết tới ngày nay. Khoảng 60% số công trình và đường phố của thành phố được xây dựng dưới sự điều hành của ông (3). Dự án đã tác động mạnh vào nền kinh tế nước Pháp lúc đó bằng việc sử dụng tới 70.000 lao động và làm tăng giá đất ở Paris khoảng 12 lần. Việc giải tỏa để xây dựng hạ tầng và công trình công cộng cũng tạo ra một lượng lớn bất động sản và tiền được luân chuyển trên thị trường. Các công trình chung cư mới được xây theo quy định kiến trúc của Haussmann đã tạo ra 215.304 căn hộ mới, so với 117.000 căn bị phá dỡ (9). Tuy nhiên, số lượng căn hộ mới này vẫn không đủ để đáp ứng dòng nhập cư vào thành phố. Bên cạnh đó, giá thuê nhà tăng cao sau khi dự án hoàn thành khiến những người lao động nghèo không có chỗ trong Paris mới tráng lệ (16).
Phê phán lớn nhất đối với dự án cải tạo Paris của Haussmann chính là việc đẩy người nghèo ra khỏi trung tâm thành phố và tạo ra một sự phân tách về không gian sống giữa các tầng lớp trong xã hội. Một thế kỷ sau, sự tách biệt giữa người giàu và người nghèo vẫn còn gây ra những vấn đề trầm trọng về giao thông công cộng và quản lý xã hội (2). Ngày nay, đối lập với khu trung tâm hoa lệ của thủ đô nước Pháp là vùng ngoại ô của người nghèo và dân nhập cư nơi những bất mãn thường xuyên chuyển thành những cuộc bạo động.
Còn ngay tại thời điểm triển khai dự án, việc giải tỏa quá nhiều công trình dẫn đến sự phản đối gay gắt đối với Haussmann. Một phê bình phổ biến nữa là những nỗ lực xây dựng và mở rộng đường phố của QHCT Paris thực chất phục vụ mục tiêu quân sự: cho phép quân đội và khí tài di chuyển dễ dàng trong thành phố và ngăn chặn việc người dân nổi dậy và lập ra các công sự trên đường phố.
Trước những phê phán này, Haussmann bị sa thải năm 1870 trong nỗ lực bất thành của nhà vua nhằm cứu vãn chế độ. Chỉ vài tháng sau, triều đại của Napoleon III sụp đổ, nhường bước cho nền Cộng hòa.
Bất chấp những phê phán trên, những gì diễn ra ở Paris nửa sau thế kỷ 19 và những gì trình bày trong cuốn catalogue của Aldoph Alphand đã trở thành niềm cảm hứng và mở đường cho những biến đổi từ Vienna tới Roma, từ Chicago tới Hà Nội. Frederick Law Olmsted, cha đẻ của ngành kiến trúc cảnh quan hiện đại, đã có mặt trên công trường xây dựng Bois de Boulogne để học hỏi cho dự án Central Park ở New York. Trong khi đó Daniel Burham, tác giả của Quy hoạch Chicago – hồ sơ quy hoạch hoàn chỉnh đầu tiên của nhân loại, thì đã đọc ngấu nghiến cuốn Les Promenades de Paris (3,5). Có thể nói, dự án cải tạo Paris của Haussmann đã mở đường cho quy hoạch và xây dựng đô thị hiện đại. Nhà đô thị học Francoise Choay cho rằng Haussmann đã đặt ra “nền tảng về phương pháp luận” và đặt không gian đô thị thành đối tượng của khoa học ứng dụng (5). Giáo sư xã hội học Richard Sennett thì ghi nhận rằng Haussmann “là người đầu tiên nhìn nhận các vấn đề (nhà ở, giao thông, chính trị,v.v…) có mối liên hệ cơ bản với nhau” (5). Thay vì quy hoạch từng khu vực và cải tạo dần dần, Haussmann đã nỗ lực thực hiện một đồ án tổng hợp và toàn diện. Cũng trong đồ án cải tạo Paris của Haussmann, lần đầu tiên chúng ta thấy một sự dịch chuyển từ quy hoạch thiên về thiết kế thị giác sang quy hoạch lấy trọng tâm là kinh tế, xã hội và môi trường (3,5).
Ảnh thêm (nhấn vào hình để xem ở kích thước lớn hơn)

[i] Trong hệ thống chính quyền đô thị ở nhiều nước phương Tây, bên cạnh thị trưởng và Hội đồng thành phố là các vị trí dân cử có vai trò giống như hội đồng quản trị của một công ty còn có bộ máy quản lý thuần túy chuyên môn đứng đầu bởi một “giám đốc quản lý thành phố”. Các “giám đốc” này cũng như các vị trí đứng đầu các cơ quan của thành phố trước kia được chỉ định như trường hợp của Georges-Eugène Haussmann. Ngày nay, các vị trí này được tuyển dụng công khai trên thị trường lao động.
[i] Giống như “tàu điện” mặt đất bây giờ nhưng sử dụng máy hơi nước thay vì điện.
Tài liệu tham khảo
- Bacon, E. (1974). Design of Cities. New York, NY: Penguin Books;
- Morris, A.E. (1979). History of Urban Form before the Industrial Revolution. New York, NY: John Wiley & Sons;
- Saalman, H. (). Haussmann: Paris transformed. New York, NY: George Braziller;
- Jordan, D. (2005). Review of Papayanis, N. (2004): Planning Paris before Haussmann. The American Historical Review, vol. 110, no. 4, 2005.
- Papayanis, N. (2004): Planning Paris before Haussmann. Baltimore, MD: John Hopkins University Press.
- Jordan, D. (1992). Baron Haussmann and Modern Paris. The American Scholar.
- http://www.mapforum.com (n.d.). An Imperial Capital: Georges-Eugène Haussmann’s Transformation of Paris. Retrieved in Decmeber 20th 2011 from http://www.mapforum.com/15/blmap.htm;
- Allen, D. (2011). Lectures on History of Urban Form. College of Architecture. Georgia Institute of Technology;
- Couperie, P. (1971). Paris through the ages: an illustrated historical atlas of urbanism and architecture. New York: G. Braziller.
- Des Cars, J. (1991). Paris-Haussmann: “le pari d’Haussmann”. Paris: Pavillon de l’Arsenal .
- Alphand, A. (1984). Les promenades de Paris: histoire–description des embellissements–dépenses de création et d’entretien des Bois de Boulogne et de Vincennes, Champs-Élysées–Parcs–squares–boulevards–places plantées, Étude sur l’art des jardins et arboretum, 487 gravures sur bois, 80 sur acier, 23 chromolithographies. Princeton, NJ: Princeton Architectural Press.
- Loyer, F. (1988). Paris nineteenth century: architecture and urbanism. 1st American ed. New York: Abbeville Press.
- Haussmann, G. Eugène. (1890). Mémoires du Georges-Eugène Haussmann. Paris: Victor-Havard.
- Boults, E. & Sullivan, C. (2001). Illustrated history of landscape design. Hoboken, NJ: John Wiley & Sons.
- Adcok, M. (1996). Remaking Urban Space – Baron Haussmann and the Rebuilding of Paris, 1851-1870. The University of Melbourne Library Journal Volume 2, Number 2.
- Chapman, B. (1953). Baron Haussmann and the Planning of Paris. The Town Planning Review, Vol. 24, No. 3, pp. 177-193.
Ý kiến của KTS Trần Huy Ánh: Cám ơn Đỗ Dũng , bài đăng của em rất có giá trị lý thuyết và thực tiễn . Những thành công của QHĐT từ phương Tây cuối TK 19 đầu TK 20 đã ảnh hưởng nhiều đến các đô thị phương Đông , cụ thể QH Pháp ảnh hưởng trực tiếp đến Đông Dương , Việt Nam…Sau 150 năm , nhiều bài học vẫn còn nguyên giá trị , vì vậy ta cần nhiều bài viết công phu , uyên bác như thế này . Chỉ tiếc là hình minh họa của em nhỏ quá nên muốn truyền đạt tới các nhà QH trẻ tuổi hay các nhà quản lý đô thị lớn tuổi nhưng non hiểu biết …chưa hấp dẫn lắm .
Ý kiến của tiến sĩ, KTS Nguyễn Thanh Bình:
Thân Dũng,
Bài viết mới của Dũng và cả ý định viết rất có ý nghĩa. Lịch sử quy hoạch luôn là một phần rất quan trọng của quy hoạch – ở khía cạnh gián tiếp minh chứng sự thành công hay thất bại của các ý tưởng, những nỗ lực xây dựng tổ chức thành phố. Với lịch sử quy hoạch, nêu được đầy đủ bối cảnh, sự ra đời, phát triển, tương tác, hiệu quả của một ý tưởng/ nô lực quy hoạch là một chuyện, thấu hiểu và đánh giá chính xác được vai trò của ý tưởng/ nỗ lực lại là chuyện khác. Lịch sử QH chỉ thực sự có ý nghĩa khi được hiểu thật đầy đủ, chính xác.
Trong bài viết của Dũng, mình nhận thấy một số điều rất đáng tìm hiểu thêm:
1) Tại sao Napoleon III lại tin tưởng E. Haussmann, một người học luật ra, và có vẻ chưa từng có kinh nghiệm quy hoạch phát triển đô thị, để cho phép ông ta giữ chức vụ trong gần 20 năm, thực hiện cải tạo Paris?
2) Điều gì đã giúp Haussmann có được quyền hành khủng khiếp đến vậy: có thể phá bỏ hàng trăm ngàn ngôi nhà, di dời hàng trăm ngàn người, thao túng cơ quan luật pháp để vay tiền thực hiện dự án cải tạo cực kỳ tốn kém?
3) Dũng có nói đến các thành công, sáng tạo trong công tác cải tạo thành phố: XD hệ thống cấp thoát nước, mở rộng đường, XD nhiều công viên, cải tạo bộ mặt đô thị – những thành công mà sau này trở thành hình mẫu để các nơi khác làm theo. Câu hỏi rất đáng tìm hiều là làm thế nào mà những người thực hiện dự án cải tạo Paris lại có thể – trong ngay dự án đầu tiên của mình – thực hiện rất thành công các công việc trên? Liệu họ học tập từ quá khứ, hay do họ tự phát minh ra? Nếu họ tự nghĩ ra, điều đó có nghĩa rằng sự tài giỏi, tư duy lô gich chứ không phải “các bài học lịch sử” là điều quan trọng.
4) Công việc của Haussmann thực tế đã phá hủy gần hết Paris cổ để tạo ra Paris mới từ 1870. Việc này đứng về mặt lịch sử văn hóa mà nói, công việc của Haussman là tội ác hay thành công? Chúng ta đang bất chấp quy luật tự đào thải để gìn giữ các mảng đô thị “cổ” – chúng ta có lạc hậu so với Haussmann không? vậy mỹ từ Paris “kinh đô ánh sáng” có bao nhiều phần sự thực và bao nhiêu phần phản ánh “công lao” của Haussmann?
5) cuối cùng, liên hệ trường hợp Paris với các nơi khác và thời nay: bao nhiêu nơi đủ sức làm với Paris như Napoleon III và Haussmann? nền kinh tế, chính trị Pháp rõ ràng là yếu tố quan trọng chưa được đề cập – bởi nếu thiếu các sức mạnh đó, dù được trao quyền, dù có ý tưởng cũng không thể xoay chuyển được Paris trong thời gian ngắn như vậy.
Trong phần kết của bài viết, tác giả có viết “Cũng trong đồ án cải tạo Paris của Haussmann, lần đầu tiên chúng ta thấy một sự dịch chuyển từ quy hoạch thiên về thiết kế thị giác sang quy hoạch lấy trọng tâm là kinh tế, xã hội và môi trường”. Đây là kết luận có rất nhiều nghi vấn. Chính bài viết đã cho biết Haussmann đã tạo ra gánh nợ nần khủng khiếp cho đất nước, và đó cũng là lý do khiến ông bị mất việc; ông tạo ra các đại lộ sang trọng, đắt tiền với cái giá là sự đẩy người nghèo ra ngoại ô một cách ồ ạt. Khó có thể cho rằng Haussmann lấy trọng tâm là kinh tế, xã hội và môi trường!?
——————————–
Mình có tìm được một chương viết đáng chú ý của Anthony Sutcliffe (Towards the Planned City – Germany, Britain, the United States and France, 1780-1914) về quy hoạch nước Pháp thời đó, muốn tóm tắt một số ý chính – có thể làm rõ hơn vai trò của Haussmann với sự phát triển đô thị:
– Vào thế kỷ 17, nước Pháp đã có các đô thị phát triển dẫn đầu châu Âu. Đô thị Pháp đã mở rộng và phát triển vượt bậc từ cuối thế kỷ 16 theo nguyên tắc thiết kế đô thị truyền thống (có thứ bậc, cân xứng, trục trọng tâm). Chỉ giới đường đỏ được áp dụng triệt để từ thời Henri IV để ngăn chặn việc XD lộn xộn. Công trình dọc đại lộ phải xin phép mới được XD; ngoài ra còn phải đảm bảo an toàn phòng cháy chữa cháy. Bộ máy quản lý đô thị ở Paris đã thiết lập và thực hiện bộ luật xây dựng hoàn chỉnh nhất châu Âu thời đó. Vào năm 1783 bố cáo hoàng gia đã yêu cầu mọi đường phố phải có bề ngang tối thiểu 9m, và mọi công trình xây mới phải bị khống chế về chiều cao, tùy thuộc vào công nghệ XD cũng như bề ngang đường phố. Cũng trong bố cáo này, có đề cập về giải pháp mở rộng dần đường phố hiện có khi có chỉ giới đỏ mới – thông qua cơ chế buộc những nhà mới xây phải theo chỉ giới đỏ này.
– Vào năm 1807, Pháp có luật về thoát nước tại các khu vực lầy lội. Trong luật này, chính quyền đô thị được lệnh phải lập quy hoạch hệ thống chỉ giới đỏ với mọi con đường, cả đã xây lẫn chưa xây để quản lý xây dựng mọi công trình. Quyền được trưng dụng đất để làm đường được chỉ rõ: nhà nước chỉ phải bồi thường phần đất trưng dụng theo giá đất tại thời điểm thu hồi. Nhưng nhà nước có quyền thu thuế giá trị gia tăng mà các khu đất dọc đường có được nhờ mở rộng/ cải tạo đường. Chính quyền cũng phải vẽ quy hoạch hệ thống không gian công cộng để thực thi.
– Dù các nỗ lực trên của Pháp được người Đức sau này học hỏi và áp dụng thành công, Pháp lại không làm được điều quan trọng nhất là: QH và giữ hệ thống chỉ giới đỏ ở các khu đất chưa xây dựng. Toàn án Pháp năm 1837 quyết định rằng: nếu muốn mở đường phố mới, chính quyền phải mua đất cần thiết để mở đường trước. Kết quả, chính quyền đã không thể chủ động mà phó thác cho chủ đất tự phát triển đường xá ở các vùng ngoại vi đô thị. Chính quyền đô thị ở nhiều nơi đã cố gắng buộc chủ đất phải tôn trọng tiêu chuẩn và luật XD, nhưng nhiều khu đất ngoại vi vẫn trở thành các khu xây dựng lộn xộn do xây dựng không theo quy hoạch mà bám theo các đường ngõ xóm trước đó.
– Vào nửa đầu thế kỷ 19, đô thị hóa tại Pháp phát triển chậm hơn hẳn Đức và Anh, chỉ với 20% dân sống tại đô thị, kinh tế Pháp lại phát triển không ổn định. Đã có nhiều vấn đề về đô thị và môi trường sống đô thị, nhưng không có thay đổi gì đáng kể, bởi quốc hội do nông dân nắm quyền, không quan tâm nhiều đến đô thị. Chính quyền đô thị phải làm mọi cách có thể được, và nhiều nơi bắt đầu thực hiện các chương trình cải tạo đường phố, hệ thống thoát nước trước những năm 1840s.
– Do khủng hoảng kinh tế, Louis Napoleon được bầu làm tổng thống. Nhưng Napoleon ngay sau đó bãi bỏ chế độ dân chủ để tự xưng là hoàng đế, với tham vọng hiện đại hóa kinh tế để vực dậy uy thế nước Pháp – với công cụ chính là đầu tư công tập trung để hiện đại hóa hạ tầng giao thông. Do hệ thống đường sắt Pháp đã được phát triển từ những năm 1840s, Napoleon chủ trương phát triển mở rộng hạ tầng giao thông đô thị với nhiều mục đích: 1) kết nối trong ngoài thành phố, làm các dịch vụ trong thành phố trở nên dễ tiếp cận; 2) tạo điều kiện khuyến khích dân chuyển ra ngoài sinh sống; 3) xây dựng mở rộng đường và hệ thống cấp thoát nước một lần để giảm chi phí đầu tư; 4) cải thiện, xóa bỏ các khu ổ chuột để nâng cao chất lượng môi trường sống; 5) XD các công trình mới tạo hình ảnh đô thị và khối lượng lớn công ăn việc làm trong lĩnh vực xây dựng; 6) đảm bảo an ninh: giảm thất nghiệp, dễ điều quân đội trấn áp biểu tình ở mọi nơi; 7) khai thác đất đô thị ở những khu vực chưa phát triển. Haussmann và một số chuyên gia được giao trọng trách cải tạo Paris trong bối cảnh đó, nhờ kinh nghiệm của một số nỗ lực cải tạo của thời trước 1840s.
– Ngoại trừ mở rộng XD hệ thống hạ tầng do chính quyền TP đảm trách, hầu hết xây dựng hai bên đường hoàn toàn do tư nhân, chỉ tuân theo duy nhất luật XD chung thời đó – ảnh hưởng của nhà nước tới nhà xây hai bên đường là rất hạn chế. Vấn đề khó nhất đó là trưng thu đất để xây dựng hạ tầng: càng ngày tốn kém và khó làm. Luật trưng thu đất XD hạ tầng của Pháp thời đó là luật 1841, chỉ sửa từ luật 1807, chỉ phù hợp với XD đường xe lửa – do đó Haussmann không thể thu hồi nhiều đất hơn là đất cần thiết để mở đường. Napoleon sau này ban hành nghị định bổ sung năm 1853 cho phép chính quyền được thu hồi cả đất bên ngoài đất cần thiết để mở đường, nếu đất đó không phù hợp (về kích thước, hình dạng) để xây dựng các công trình đảm bảo yêu cầu về mặt sức khỏe. Nhưng chính sách đó, kể cả sự hậu thuẫn của tòa án cũng chỉ giúp các dự án mở đường thu được thêm các dải đất dài chạy dọc đường, dùng để tạo ra các công trình không phù hợp nhiều với cấu trúc của các ô phố. Trong thực tế, mở đường lớn không giúp ích nhiều cho việc cải tạo các khu vực bên trong, chưa kể di dân từ những nơi mở đường góp phần làm tăng mật độ dân số tại các khu lân cận. Chiều cao khống chế các công trình mặt đường lớn bị giảm từ 20m xuống 17.55m (1859) vì lý do đảm bảo sức khỏe, nhưng sau đó lại trở lại 20m (1864) do chống đối từ dân. Pháp vào năm 1850 đã có luật cho phép chính quyền kiêm tra, giám sát, thậm chí cưỡng chế thu hồi những khu nhà ổ chuột không đảm bảo sức khỏe, nhưng luật này gần như không được thực hiện trong thực tế do không phù hợp chủ trương mị dân của chính quyền.
– Vào những năm 1860s, sau khi một tuyết phố chính tại Paris đã hoàn thành và nhận được sự ngợi khen của người dân, chương trình cải tạo đô thị bị ngưng trệ, do chi phí cao và sự bất ủng hộ của dân. Pháp thua Phổ năm 1870 làm ngưng trệ hoàn toàn chương trình, thay đổi hiến pháp và Công xã Paris 1871, và Haussmann mất việc. Gánh nặng nợ nần của chương trình cải tạo đô thị giờ do chính quyền đô thị gánh, trong khi kinh tế Pháp suy sụp. Vay nợ mới, bao cấp giờ là chuyện không còn ai muốn nữa. Dù vậy, do giá nhà đất Paris sụt giảm, chính quyền thành phố nhận thấy đó là cơ hội để thực hiện nốt một số phần việc của Haussmann mà không mất thêm chi phí. Công sức được dồn vào để xây dựng Avenue de l’Opera trong những năm 1880s và 1890s nhưng cuối cùng cũng với đủ các vấn đề giống như đã xảy ra thời trước, dù ít nghiêm trọng hơn. Các đô thị khác của Pháp cũng theo mô hình cải tạo của Paris nhưng ít đẻ lại dấu ấn hơn.
– Sau Haussman, hệ thống tàu điện ngầm được XD ở Paris năm 1890s, chậm hơn London 40 năm. Luật XD được củng cố, chú ý nhiều đến vấn đề thông hơi và ánh sáng của các phòng thông qua giếng trời, sân trong. Hệ thống cấp nước được cải thiện, với việc bắt đầu áp dụng hệ thống cấp nước cho vệ sinh (bore water – không dùng để uống) từ giữa những năm 1880s. Dù vậy không hề có quy hoạch các khu vực ngoại ô, không có cải thiện gì trong việc giải quyết các khu ở ổ chuột, không có nỗ lực giảm thời gian đi lại giữa trung tâm và các vùng ngoại ô. Giới chức quản lý quy hoạch, đô thị Pháp, cho đến đầu thế kỷ 20, chưa có khái niệm gì về phân khu chức năng, ngoại trừ ý thức duy nhất rằng nhà máy phải xa khu dân cư; thậm chí làm đẹp thành phố cũng không còn hấp dẫn với họ. Trong khi đó tại Anh, Đức và Mỹ, đã bắt đầu có tiến triển đi tới xây dựng hệ thống quy hoạch tổng thể.
————————
Bình
1) Tại sao Napoleon III lại tin tưởng E. Haussmann, một người học luật ra, và có vẻ chưa từng có kinh nghiệm quy hoạch phát triển đô thị, để cho phép ông ta giữ chức vụ trong gần 20 năm, thực hiện cải tạo Paris?
Trả lời: Trường hợp như Haussmann không những hiếm mà rất phổ biến trong lịch sử phương Tây. Vai trò của haussmann là nhà tổ chức thực hiện quy hoạch chứ không phải nhà quy hoạch. Vua tin tưởng ông vì 2 nhẽ: ông là một nhà quản lý giỏi và rất trung thành. Trong lịch sử sau này New York có Robert Moses xây nên phần lớn New York hiện tại và cũng đập phá hiện trạng như Haussmann – ông này có bằng tiến sĩ chính trị học ở Yale và mặc dù chức vụ to nhất ông ta nắm giữ chỉ là Giám đốc Công viên – Cây xanh như ông ta thực sự thâu tóm rất nhiều quyền lực và cả thống đốc bang cũng phải sợ. QH Xây dựng thủ đô Washington DC hiện đại là bản quy hoạch McMillan lấy theo tên một thượng nghĩ sĩ người được giao đứng đầu ủy ban thực hiện quy hoạch. Cái thành phố 1 triệu dân Calgary em từng sống ở Canada thì có bản báo cáo McNelly (tên vị Bộ trưởng đứng đầu ủy ban nghiên cứu đô thị) vào năm 1956 đưa ra những đề xuất cực kỳ sáng suốt và giúp định hình thành phố hôm nay – một trong những đô thị có mức sống cao nhất và chất lượng sống tốt nhất thế giới. Ngay cả Báo cáo nổi tiếng của Liên Hiệp Quốc về phát triển bền vững cũng mang tên Bản báo cáo Bruntland – tên cực thủ tướng Na Uy, một bác sĩ, người đứng đầu ủy ban nghiên cứu.
Quy hoạch là lĩnh vực đa ngành và cần tầm nhìn xa, nhất là về kinh tế và môi trường, do đó vai trò của người tổ chức thực hiện vô cùng quan trọng. Dưới trướng của Haussmann, McMillan, Robert Moses, McNelly hay Bruntland sẽ là những nhà chuyên môn xuất sắc nhưng credit vẫn tập trung vào người lãnh đạo vì khả năng “biến cái không thể thành có thể” của họ.
2) Điều gì đã giúp Haussmann có được quyền hành khủng khiếp đến vậy: có thể phá bỏ hàng trăm ngàn ngôi nhà, di dời hàng trăm ngàn người, thao túng cơ quan luật pháp để vay tiền thực hiện dự án cải tạo cực kỳ tốn kém?
Trả lời: Quyền của Haussmann đến từ nhà vua. Vua Napoleon III rất mê kiến trúc. Trước khi giao việc cho Haussmann, vua đã tự làm 1 năm nhưng có vẻ không hiệu quả. Nhiều tài liệu cho biết khi giao việc cho Haussmann, ông ta cũng đồng thời trao cho một bản đồ Paris trên đó vạch rõ những tuyến đường cần phải mở và dùng màu chì khác nhau để thể hiện mức độ ưu tiên. Có thể nói ý tưởng là của vua nhưng lịch sử vẫn ghi công chính cho Haussmann vì là người thực hiện.
3) Dũng có nói đến các thành công, sáng tạo trong công tác cải tạo thành phố: XD hệ thống cấp thoát nước, mở rộng đường, XD nhiều công viên, cải tạo bộ mặt đô thị – những thành công mà sau này trở thành hình mẫu để các nơi khác làm theo. Câu hỏi rất đáng tìm hiều là làm thế nào mà những người thực hiện dự án cải tạo Paris lại có thể – trong ngay dự án đầu tiên của mình – thực hiện rất thành công các công việc trên? Liệu họ học tập từ quá khứ, hay do họ tự phát minh ra? Nếu họ tự nghĩ ra, điều đó có nghĩa rằng sự tài giỏi, tư duy lô gich chứ không phải “các bài học lịch sử” là điều quan trọng.
Trả lời: Em có nói về đội ngũ của Haussmann trong bài “Đội ngũ chính của ông bao gồm: kỹ sư Eugène Belgrand phụ trách mảng cấp và thoát nước; kỹ sư Adolphe Alphand phụ trách thiết kế cảnh quan; và nhà làm vườn Jean-Pierre Barillet-Deschamps phụ trách về cây xanh. Tất cả đều là những nhà chuyên môn hàng đầu của thời đại và thông qua QHCT Paris họ lưu danh kim cổ.” – Những tên tuổi này đều là thiên tài trong lĩnh vực của họ giống như Einstein trong vật lý và Darwind trong sinh học. Anh có thể search tên từng người để đọc về họ. Bản thân khi Haussmann mất việc (em nói thêm ở dưới), những người này vẫn tiếp tục được trọng dụng để thực hiện đồ án, thậm chí khi chế độ Napoleon sụp đổ!!!
Cũng phải nói thêm là đã có rất nhiều người yêu và suy nghĩ về Paris cũng như nhiều phát kiến về hạ tầng đô thị trên thế giới lúc bấy giờ. Làm một người duy lý và mê công nghệ. Haussmann cho áp dụng chúng mặc dù ông và đội ngũ của mình không phải là người nghĩ ra. Vả lại bài viết thì mình đọc trong vài phút nhưng dự án được thực hiện hàng chục năm, có lẽ không phải không có những thử nghiệm, bài học để rồi đi tới sự hoàn thiện.
Liên hệ tới Vn, em nghĩ đề xuất một quy hoạch tốt và thực hiện chúng ở Vn không phải là không làm được về mặt con người và kỹ thuật, nhưng cơ chế không cho phép những ý tưởng mới và con người có năng lực được làm việc của họ.
4) Công việc của Haussmann thực tế đã phá hủy gần hết Paris cổ để tạo ra Paris mới từ 1870. Việc này đứng về mặt lịch sử văn hóa mà nói, công việc của Haussman là tội ác hay thành công? Chúng ta đang bất chấp quy luật tự đào thải để gìn giữ các mảng đô thị “cổ” – chúng ta có lạc hậu so với Haussmann không? vậy mỹ từ Paris “kinh đô ánh sáng” có bao nhiều phần sự thực và bao nhiêu phần phản ánh “công lao” của Haussmann?
Trả lời: Cái này em cũng đã nói trong bài, có hai phê phán lớn nhất về Haussmann: đập phá thành phố cũ và đẩy người nghèo ra ngoại ô (hậu quả tới tân bơi giờ, anh chị để ý tin tức thì rất hay thấy bạo động ở ngoại ô Paris). Cái giá của “kinh đô ánh sáng” là rất lớn. Ngoài ra cũng phải nói thêm rằng bản chất của đô thị là sự lộn xộn, sự pha trộn giữa giàu và nghèo, bẩn thỉu và sạch sẽ,… nên bằng mọi cách làm cho thành phố “tráng lệ” thì cũng là thu hút người nghèo và dân nhập cư – những người sẽ kiếm sống bằng cách phục vụ người giàu và sự “tráng lệ” đó. Nếu nội đô Paris tráng lệ bao nhiêu thì ngoại ô Paris sẽ tệ bấy nhiều (đây là nói theo sách vở vì em chưa đến Paris, các anh chị có đóng góp gì k?) Em đã viết điều này về Hà Nội, đầu tư quá nhiều cho thủ đô, dồn những cái tốt nhất cho nó cũng là tiếp tục thu hút dân nhập cư và người nghèo. Cần phải cân bằng trong phát triển đô thị.
Sau này Robert Moses tiếp tục theo cách của Haussmann để xây New York và bị phản đối dữ dội. Một trong những người đấu tranh chống Moses mạnh mẽ nhất chính là Jane Jacobs và cuốn sách của bà :”sự sống và cái chết của các thành phố lớn nước Mỹ”. Chính bà thay đổi quan niệm của chúng ta về đô thị và cách thực hiện quy hoạch đô thị
5) cuối cùng, liên hệ trường hợp Paris với các nơi khác và thời nay: bao nhiêu nơi đủ sức làm với Paris như Napoleon III và Haussmann? nền kinh tế, chính trị Pháp rõ ràng là yếu tố quan trọng chưa được đề cập – bởi nếu thiếu các sức mạnh đó, dù được trao quyền, dù có ý tưởng cũng không thể xoay chuyển được Paris trong thời gian ngắn như vậy.
Trong phần kết của bài viết, tác giả có viết “Cũng trong đồ án cải tạo Paris của Haussmann, lần đầu tiên chúng ta thấy một sự dịch chuyển từ quy hoạch thiên về thiết kế thị giác sang quy hoạch lấy trọng tâm là kinh tế, xã hội và môi trường”. Đây là kết luận có rất nhiều nghi vấn. Chính bài viết đã cho biết Haussmann đã tạo ra gánh nợ nần khủng khiếp cho đất nước, và đó cũng là lý do khiến ông bị mất việc; ông tạo ra các đại lộ sang trọng, đắt tiền với cái giá là sự đẩy người nghèo ra ngoại ô một cách ồ ạt. Khó có thể cho rằng Haussmann lấy trọng tâm là kinh tế, xã hội và môi trường!?
Trả lời: Về ý này, em cũng đã suy nghĩ. ý em là “một sự dịch chuyển” chứ không bảo là đồ án QHCT Paris lấy trọng tâm là kinh tế, xã hội nhưng trong trường hợp “môi trường” thì đúng là vậy. Khi nhận xét, chúng ta phải xem bối cảnh lịch sử của đồ án. “quy hoạch” trước đó thường chỉ là một hai bản vẽ đơn thuần. Tới Haussmann thì mức độ comprehensive của đồ án thay đổi đột biến – đó là điều phải ghi nhận. Khi thực hiện, Haussmann không chỉ quan tâm tới xây dựng không mà cả các vấn đề tài chính (cơ chế tài chính sáng tạo), chất lượng sống và nhà ở. Tất nhiên như kết quả của đồ án thì chúng ta thấy kinh tế và nhà ở thất bại nhưng điều này không có nghĩa là quy hoạch không quan tâm đến kinh tế và xã hội. Sau này Robert Moses ở New York cũng thế. Hậu quả xã hội là nặng nề khi người da đen bị đẩy khỏi Hạ Mahattan (urban renewal bị gọi chệch là negro removal) nhưng quả là ý đồ này của Moses trong quy hoạch là có khía cạnh xã hội dù nó tiêu cực.
Cuối cùng, sau bài này, các tài liệu viết về Haussmann và đồ án của ông em có rất nhiều, ai quan tâm thì email em sẽ gửi cho.
Trân trọng
Cám ơn bài viết của bạn.
Mình cũng rất quan tâm đến quy hoạch đô thị của Paris ( mới bắt đầu tìm hiểu thôi) nên rất mong bạn có thể chia sẻ thêm tài liệu cho mình để mình tham khảo.
Trân trọng,
THINH Pham
Bài viết của Dũng rất hay, rất đáng khâm phục với một nhà quy hoạch trẻ tuổi
Thiết nghĩ mọi người cần phải neo theo tấm gương của Dũng rất nhiều
Pingback: Nếu những căn nhà ở Paris có thể bay | đô thị