Phản biện chương 1- Mục tiêu, tầm nhìn, ý tưởng chính của đồ án:- Hà Nội tuy nói là một đô thị ngàn năm lịch sử, nhưng suốt cả gần một ngàn năm đó, yếu tố đô thị chỉ tập trung trong một vùng đất rất nhỏ độ mươi km2, với lượng dân số một hai trăm ngàn người. Chỉ trong vòng hai chục năm trở lại đây, thành phố nhỏ này đã trở thành một đô thị tầm trung, với diện tích lên tới gần 1000 km2, dân số tới trên 2 triệu. Sự thay đổi nhanh chóng đó đã dẫn đến rất nhiều khó khăn kỹ thuật, do không có một quy hoạch chung phù hợp. Tuy nhiên với tầm cỡ đó, Hà nội mới chỉ là một trong 3 đô thị trọng điểm của Việt nam. Vai trò của Hà nội trên trường quốc tế gần như không đáng kể.
Trong đồ án quy hoạch chung lần này, chỉ trong 20 năm tiếp theo, tham vọng của Hà Nội là trở thành một đô thị hàng chục triệu dân, với diện tích trên 3000 km2, có chỗ đứng trong khu vực và trường quốc tế, xứng tầm là thủ đô hùng mạnh lâu dài của một cường quốc hàng trăm triệu dân v.v. Đây là một bước nhảy mới, đòi hỏi một tầm nhìn chiến lược khác hẳn với việc mở rộng diện tích đơn thuần.
Ngòai ra, trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu thì Việt nam là một trong những nước bị ảnh hưởng lớn nhất. Điều đó dẫn đến nhu cầu phải định hướng lại chiến lược, vị thế của cả Việt nam trên trường quốc tế cũng như cấu trúc đô thị, không gian và sử dụng đất trong cả nước. Mỗi đô thị cần được quy hoạch sao cho ứng phó được với điều kiện biến đổi khí hậu này.
Trước nhu cầu đó, đồ án quy hoạch chung đưa ra tầm nhìn: Hà nội mở rộng – thủ đô bền vững hàng đầu thế giới… trở thành một thành phố chủ chốt khối ASEAN, thiết lập cương vị lãnh đạo ở châu Á và trên thế giới trong các vấn đề môi trường, năng lượng và bền vững.
Bất kỳ cái gì hàng đầu thế giới đều có thể coi là một tham vọng rất lớn, nói dễ mà làm thì khó. Những giải pháp, định hướng được đưa ra tuy có đi theo hướng phát triển bền vững, nhưng không có gì đảm bảo là đạt được mức hàng đầu thế giới cả. Nói đúng hơn là khẩu hiệu quy hoạch chứ không phải tầm nhìn, vì không dựa trên những cơ sở lập luận khả thi. Những khẩu hiệu hoang đường như vậy không thể trở thành cơ sở cho một nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Thực ra chỉ riêng một tiêu chí bền vững mà làm được cho tốt cũng là rất hiệu quả rồi.
Đồ án đưa ra 3 ý tưởng chính như sau:
a- Một đô thị lõi tập trung đa năng và 5 đô thị vệ tinh chuyên môn hóa, gắn kết với nhau bởi hệ thống giao thông hiện đại.
b- Hành lang xanh: là vùng trung gian liên kết giữa phần lõi và các vệ tinh, dựa trên cơ sở cân bằng giữa bảo tồn và phát triển, là khu vực phát triển các làng nghề truyền thống, di sản văn hóa trên cơ sở sinh thái.
c- Phát huy hệ thống sông nước làm đặc điểm không gian chính, đặc biệt lấy sông Hồng làm trung tâm không gian của thành phố.
Có thể dễ dàng nhận thấy cả 3 ý tưởng trên đều mới chỉ là hình thức bố trí không gian bên ngoài, hoàn toàn chưa đả động đến những vấn đề chiến lược cơ bản như làm thế nào để thích ứng với biến đổi khí hậu, làm gì để khẳng định vai trò, vị thế, chiến lược cạnh tranh trong khu vực, trường quốc tế. Công bằng mà nói thì cũng không thể đòi hỏi một quy hoạch chung xây dựng đô thị phải đưa ra được những giải pháp chiến lược về kinh tế xã hội đảm bảo sự phát triển phồn vinh của đô thị đó. Việc không có một chiến lược kinh tế xã hội đủ tầm làm định hướng cho quy họach tất sẽ dẫn đến một quy họach chỉ mang tính hình thức, ít tác dụng thực thụ. Như vậy, cũng có thể thông cảm cho hoàn cảnh của các nhà quy hoạch và chấp nhận một yêu cầu tương đối khiêm tốn đối với quy hoạch này.
Tuy nhiên thực tế cũng có tác dụng ngược lại của quy họach. Một quy hoạch chung có tầm chiến lược tốt có thể tạo ra một môi trường đô thị và cảnh quan thuận tiện để những hoạt động kinh tế, xã hội có cơ hội phát triển lâu dài.
Phản biện chương 2– Đánh giá hiện trạng
Báo cáo lần này đã dành gần 150 trang thuyết minh cho phân tích hiện trạng, với rất nhiều hạng mục, số liệu chi tiết. Tuy nhiên đây chưa phải phương pháp phân tích hiện đại. Những số liệu đưa ra nhiều nhưng thiếu sự tổng hợp để có thể rút ra kết luận cho quy hoạch. Các hạng mục phân tích cũng rất nhiều, rất chi tiết nhưng chỉ dừng ở mức mô tả, không chốt lại được bản chất của vấn đề, không tạo được một bức tranh tổng thể về tiềm năng, vấn đề hiện trạng. Các vấn đề cần giải quyết chủ yếu là đề bài cho một quy hoạch nâng cấp, cải tạo chứ không phải để định hướng cho một đô thị mới, có tầm cỡ khác hẳn.
Thực ra, tất cả những yếu tố địa hình, địa mạo, thổ nhưỡng, thủy văn, thực bì v.v. đều là những khía cạnh để định dạng một bản chất của môi trường tự nhiên. Tất cả các yếu tố văn hóa, lịch sử, kinh tế, hạ tầng, dự án v.v. đều là các mặt của một logic nhân tạo. Cần phải nhận định rõ được những nét cơ bản của hai logic này và phân tích được xem chúng có ăn khớp với nhau không, chỗ nào đã khớp, chỗ nào chưa. Sau đó phải phân tích xem tiềm năng của hai mặt đó đối với sự phát triển và mở rộng đô thị thế nào. Có như vậy thì việc phân tích hiện trạng mới có tác dụng cho định hướng quy hoạch. Còn như hiện nay thì phần hiện trạng chẳng qua là làm cho đủ bộ phận chứ không có được ích lợi gì nhiều.
Phản biện chương 3 – Kinh nghiệm quốc tế
Nhìn chung thì chất lượng phân tích của phần này hơn hẳn phần đánh giá hiện trạng về tính logic và khả năng ứng dụng trong quy hoạch chung Hà Nội, chứng tỏ đây là một mặt mạnh rõ rệt của nhóm quy hoạch. 17 vấn đề hay bài học quy hoạch từ kinh nghiệm quốc tế được đúc rút đều rất quan trọng và đã được đưa vào áp dụng trong quy hoạch Hà Nội. Tuy nhiên, logic: “hầu hết những đô thị tốt trên thế giới đều có những đặc điểm a, b,c dẫn đến Hà nội cũng nên có những đặc điểm đó” mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải điều kiện đủ cho một quy hoạch tốt. Việc cóp nhặt những mặt mạnh của rất nhiều thành phố để tạo ra một Hà Nội ưu việt tuy là một nguyện vọng tốt, nhưng rất khó khả thi.
Đa số đô thị được đưa ra làm gương cho Hà Nội đều đã là đô thị đẳng cấp quốc tế và gần đây được quy hoạch lại để hoặc là giữ vững vai trò đó hoặc vươn lên tiếp, chiếm lĩnh một đỉnh cao mới. Ngay cả khi đó thì mỗi đô thị đều có một Vision rất cụ thể, từ đó mới dẫn đến những giải pháp quy hoạch. Trong khi đó Hà Nội xuất phát điểm là một đô thị nhỏ, yếu về kinh tế, chưa có vai trò gì trên trường quốc tế thì làm sao chỉ dựa vào mấy ý tưởng như rộng hơn, xanh hơn, bảo tồn làng nghề, khống chế mật độ, tạo khu ở mới v.v. mà đạt đẳng cấp quốc tế được.
Ý tưởng về mối liên hệ giữa việc đăng cai thế vận hội và sự phát triển kinh tế, văn hóa là một trong những ý tưởng độc đáo nhất của đồ án này. Tất nhiên, nói như đồ án là Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc nhờ có việc đăng cai Olympic mà trở nên cường quốc thì cũng là hoang đường. Thực ra các nước này đều đã có những chiến lược phát triển và hội nhập rất độc đáo, đảm bảo những đột biến tăng trưởng. Việc đăng cai Olympic chỉ là màn trình làng, như hổ thêm cánh, tăng thêm uy tín mà thôi. Trên thế giới đã biết bao thành phố đăng cai Olympic, nhưng đâu phải thành phố nào cũng bột phát rực rỡ sau đó.
Đối với Hà nội, việc định hướng thế vận hội có thể dẫn đến hai thái cực đối lập: Hoặc là việc này có thể tạo niềm tin và sức mạnh chung trong toàn quốc, khiến mọi người dốc sức xây dựng thành phố, tổ quốc. Từ đó lại gây được niềm tin từ các nhà đầu tư quốc tế, cứ thế dẫn đến vốn đổ vào ngày càng nhiều, rồi thực sự trở thành cơn lốc tăng trưởng. Trong trường hợp xấu, có thể nền kinh tế vốn đã yếu đuối phải vắt những đồng tiền cúôi cùng chi cho những công trình vô bổ để dùng một lần rồi lo bảo trì cả đời, nợ nần càng ngày càng chồng chất tới mức phá sản.
Trong hai khả năng đó, hướng tích cực có lẽ sẽ chiếm tỷ trọng cao hơn, nếu quả thật Hà Nội đăng cai được Olympic, vì với điều kiện hiện nay, thành phố phải đưa ra được một viễn cảnh và kế hoạch hết sức độc đáo may ra mới thuyết phục được ủy ban Olympic chọn mặt gửi vàng. Vì vậy, câu hỏi quan trọng hơn việc có nên tranh thầu Olympic hay không chính là việc làm sao để có thể trúng thầu Olympic. Nếu như Tokyo đã khẳng định vị thế của mình trong thế vận hội 1964 với tàu viên đạn, máy bay phản lực siêu tốc, truyền hình vệ tinh thì Hà Nội định dùng chiến lược gì để tranh thầu 2030 đây? Trong tất cả các ý tưởng chính của quy hoạch chung Hà Nội kỳ này chưa hề thấy dấu hiệu gì có sức cạnh tranh như vậy.
Ví dụ chuẩn bị Olympic của Seoul được mô tả rất tỉ mỉ, tới tận việc bao nhiêu cây thuộc bao nhiêu loài đã được trồng ở một công viên. Tuy nhiên có một thực tế rất quan trọng là suốt từ năm 1973-2008, diện tích đô thị Seoul đã không hề tăng, thậm chí còn giảm từ 614 km2 xuống 605 km2, trong khi dân số đã tăng nhiều lần, đạt trên 10 triệu người năm 2000. Tất cả mọi nỗ lực chuẩn bị Olympic đều tập trung vào chỉnh trang trên diện tích sẵn có. Trong khi đó, Hà nội đã liên tục mở rộng ranh giới, từ 12 km2 năm 1961 lên 3000 km2 năm 2008 mà không có những tiến bộ tương xứng về khoa học công nghệ hay tầm cỡ kinh tế, văn hóa.
Đồ án đưa ra một loạt ví dụ về các loại khu công nghịêp khác nhau, từ khu công nghiệp nặng tới những trung tâm công nghệ thông tin, đô thị khoa học. Tuy nhiên, những ví dụ này thường chỉ có tác dụng tham khảo đối với quy hoạch chi tiết từng khu công nghiệp. Còn bài toán quy hoạch chung là thực ra Hà Nội cần và có thể xây dựng những loại khu công nghiệp gì, số lượng, chất lượng thế nào, tại sao thì vẫn không có định hướng.
Đồ án đưa ra một loạt ví dụ về không gian đô thị ven mặt nước, vốn là nhằm minh họa cho quy hoạch hai bên bờ sông Hồng đã được Hàn Quốc lập từ trước. Thực ra những ví dụ này không có nhiều điểm tương đồng với điều kiện thực tế ven sông Hồng và trên thế giới có rất nhiều loại đô thị ven sông không giống như vậy.
Phản biện chương 4- Liên kết vùng
Phần này đưa được ra ý rất tốt, đó là bối cảnh hai khổng lồ Trung Quốc, Ấn Độ đang làm nghiêng thế giới về Đông Á. Việt nam ở cạnh, có thể tham gia vào miếng bánh lớn này. Ngoài ra, các nhà đầu tư nhắm vào Trung, Ấn nhưng có thể định đô ở Việt Nam để san sẻ rủi ro. Việt Nam và Hà nội đã tạo được niềm tin nhất định qua tăng trưởng kinh tế liên tục 20 năm qua và ổn định chính trị, tiền tệ cũng như các bước hội nhập. Xác định vai trò của Hà Nội phải là trung tâm công nghệ cao, thông tin, trí thức, dịch vụ. Hà Nội cần chọn lọc đầu tư vào những mũi nhọn chiến lược chứ không giàn trải. Xác định đối thủ cạnh tranh của Hà Nội là các đô thị như Nam Ninh, Côn Minh, Băng Cốc chứ không phải Luân Đôn, New York hay các đô thị trong nước. Thực ra, những nhận định này đủ mạnh và rõ ràng để đưa ra chiến lược quy hoạch cho Hà Nội.
Đa số những phần trình bày khác rất nhiều trong mục này chỉ làm rối loạn và mờ nhạt đi ý chính. Phân tích vẫn dựa vào một đặc điểm rất nguy hiểm được coi là thế mạnh chính của Hà Nội là nhiều đất. Muốn cạnh tranh với các đô thị Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan mà cứ nói đất rộng là lợi thế của Hà Nội thì thật là hoang đường. Việt nam là nước người đông đất chật, địa hình 4/5 là núi đồi, phần đồng bằng ít ỏi thì có nguy cơ bị ảnh hưởng cao nhất của nước biển dâng. Hà Nội tuy mở rộng ranh giới nhưng phần lớn đất là núi sông, vùng trũng hoặc những vùng nhiều cảnh quan, di tích, hạ tầng yếu kém. Phần đất có thể và nên dùng cho phát triển đô thị không thể có nhiều. Vả lại lịch sử 4000 năm của Việt nam, 1000 năm Thăng Long không thể kết thúc trong quy hoạch 20 năm tới. Miếng tài nguyên đất duy nhất của cả nước không thể đem sử dụng một cách khinh suất. Cái họa hơn 700 dự án đang phải rà soát còn chưa phải bài học nhớ đời hay sao.
Nhận định nữa của báo cáo là Việt nam là nước có tính biển nhất và tất cả các đô thị có vai vế ở châu Á TBD đều là đô thị biển, hành lang kinh tế quan trọng nhất của Hà Nội là dải Côn Minh – Hạ Long. Hà Nội có chủ trương phát triển liên kết, tránh hướng tâm. Vậy thì tại sao không định hướng Hà nội phát triển thành dải ra tận cửa biển, có nghĩa là phát triển về phía Đông thay vì phía Tây, phía Bắc. Tất nhiên việc định hướng mở rộng ra phía Tây là một quyết định đã rồi, nhưng vẫn có thể đưa ra tầm nhìn chiến lược khác.
Việc những đô thị phát triển nhanh nhất trong thời gian qua đều nằm phía bắc trên tuyến ra biển, bao gồm Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, trong khi các đô thị phía tây như Hoà Bình, Sơn Tây cũng như chuỗi đô thị vệ tinh Hoà Lạc – Xuân Mai – Miếu Môn không thể lên được cũng là cơ sở để suy nghĩ lại.
Những tuyến liên kết vùng do đồ án đề xuất hợp lý dưới góc độ nâng cấp, cải thiện mối quan hệ hiện hữu, nhưng chưa đủ tầm để hứa hẹn tạo ra một tầm cỡ quốc tế cho thủ đô Hà Nội.
“Kiến quần long vô thủ – cát” theo đúng diễn tiến của quẻ Càn, đề nghị bác Tùng giải thích vì sao mà hào cuối của quẻ Càn lại được coi như đỉnh cao của hội nhập quốc tế và đổi mới, tự do dân chủ. Hah, tôi vốn đầy hoài nghi về mây ông đem chuyện Phong Thủy và Kinh Dịch ra để dọa thiên hạ.
Thứ hai, điểm phản biện chính mà tôi thấy bác Tùng cần phản biện là liệu HN có cần phải là thành phố cạnh tranh ngang ngửa với các nước khác trên thế giới không? Tại sao không cứ là thủ đô đàng hoàn cho một nước Việt Nam đàng hoàng đi cái đã.
Thứ ba không thấy bác Tùng phản biện về dự đoán dân số. Dự đoán dân số là cái đầu tiên của một quy hoạch, dự đoán sai thì tất cả những thứ theo sau đều sai. Liệu họ căn cứ vào đâu để tính dân số HN.
Cuối cùng, ước mong đăng cai Ô-lim-pic để HN trở thành world city là hết sức nguy hiểm, bác đã nêu lên nhiều khía cạnh nhưng chưa nói đến vấn đề tài chính. Nhiêu thủ đô, thành phố sau khi đăng cai Ô-lim-pic thì đã lãnh lấy núi nợ khổng lồ (Athen chẳng hạn).
Thân mến